Lều chõng (theo Kỹ thuật của người An nam - Henri Oger).
Thứ Ba, 30 tháng 4, 2013
Thứ Ba, 23 tháng 4, 2013
Tùy Viên thi thoại
Sách có ý tìm đã lâu năm chửa thấy, nay gặp vài đoạn trích lược chép lại đọc đỡ buồn.
I.1
Những kẻ anh hùng đời xưa, khi chưa gặp
thời, đều chẳng có chí khí gì lớn lao (…) Vua Quang Võ lúc còn nghèo,
cùng đi với Lý Thông, kêu kiện việc thiếu tô thuế với Nghiêm Vưu, Vưu
thấy có vẻ lạ, để ý nhìn Quang Võ, sau khi về nhà, Quang Võ bảo Lý Thông
rằng: “Ông Nghiêm có nhìn ông đâu?”, dò ý Quang Võ thì ra ông ta cho
việc Nghiêm Vưu nhìn mình là vinh hạnh lắm. Hàn Thế Trung khi còn làm
lính trơn, có người tướng sĩ đoán rắng, ngày sau sẽ được phong vương,
Thế Trung cho là mỉa mai mình, vung nắm tay mà đánh. Tướng công Ngạc Tây
Lâm khi còn làm chức thị vệ, trong bài “Tân Sửu nguyên nhật”có câu “Lãm
kính nhân tương lão, Khai môn thảo vị sinh” (nghĩa là: Ngắm gương người
sắp già, Mở cửa cỏ chưa mọc) và trong bài thơ “Vịnh hoài” có câu “Khan
lai tứ thập do như thử, Tiện đáo bách niên dĩ khả tri” (Xem đây bốn chục
còn như thế, Thì đến trăm năm [khi già] cũng biết rồi). Xem ý mấy câu
thơ trên thì hình như ông ta không hề nghĩ rằng sau này mình sẽ làm nên
tướng văn, tướng võ. Nhưng đến khi làm chức Kinh lược bảy tỉnh rồi thì
khí tượng khác ngay, trong thơ ngang nhiên cho rằng mình là một Gia Cát
Võ Lương hầu tái thế.
I.2
Dương Thành Trai nói rằng: “Xưa nay những người tài phận thấp kém thường hay nói cách điệu (tức cách luật và âm điệu) mà không hiểu phong thú. Vì sao vậy? Vì cách điệu là một thứ khung rỗng tuếch, còn phong thú thì chuyên môn miêu tả tính linh của con người, không phải người có thiên tài, không thể làm được.”
Tôi rất thích câu nói ấy. Phải biết, có
tính tình tức có cách luật, cách luật không nằm ở ngoài tính tình. Ba
trăm bài thơ trong “Kinh thi”, phân nửa đều là câu nói ngôn tình
của những người lao khổ hoặc những người đàn bà nhớ thương, buột miệng
nói ra, nào có ai bày cách luật cho họ, mà những người nghiên cứu cách
điệu đời nay có ai vượt được ra ngoài phạm vi ấy không? Phương chi ca
dao đời vua Võ khác với loại thơ “Kinh thi”, cách luật của loại thơ
“Quốc phong” không giống như thơ “Nhã”, thơ “Tụng”, cách luật có gì là
nhất định đâu! Hứa Hồn có câu thơ “Ngâm thơ hảo tự thành tiên cốt, Cốt
lý vô thi mạc lãng ngâm” (Ngâm thơ giống như cốt thành tiên, Trong cốt
không có thơ chớ ngâm bừa) cho nên thơ quan hệ ở cốt chứ không phải ở
cách.
I.5
Thi nhân đời Đường có rất nhiều thơ hỏng
thi, Đường Thanh Thần có bài thơ “Bất đề viễn quy lai, Thê tử sắc bất
hỷ, Hoàng khuyển cáp hữu tình, Đương môn ngọa dao vĩ” (Thi hỏng về xa
xôi, Vợ con mặt kém vui, Chó vàng hẳn có tình, Giữa cửa nằm vẫy đuôi).
I.6
Tôi làm thơ vốn không thích dùng điệp
vần, họa vần hoặc dùng vần của người xưa, vì cho rằng, làm thơ cốt tả
tính tình, thích như thế nào thì làm như vậy, trong một vần có trăm ngàn
chữ, mặc ý mình chọn dùng, thế mà có lúc dùng xong rồi còn không vừa ý
mà phải thay đổi lại, thì sao lại chịu gò bó mà dùng trong một vài vần,
đã gò bó thì không thể không nhồi nhét, đã nhồi nhét thì còn đâu nữa là
tính tình? Trang Tử có câu: “Vong túc lý chi thích dã” (Giày vừa quên
chân), tôi cũng nói: “Thơ vừa quên vần”.
I.7
Triệu Nhân Thúc ở Thường Châu có đôi câu
đối “Điệp lai phong hữu trí, Nhân khứ nguyệt vô liêu” (Bướm tới gió đẹp
đẽ, Người đi trăng bùi ngùi). Một ông nọ có bài thơ “nghị cổ” như sau:
“Mạc tác giang thượng châu, Mạc tác giang thượng nguyệt, Châu tải nhân
biệt ly, Nguyệt chiếu nhân ly biệt” (Trên sông chớ làm thuyền, Trên sông
chớ làm trăng, Thuyền chở người biệt ly, Trăng soi người ly biệt). Kim
Thánh Thán hay phê bình tiểu thuyết, bị người ta chê trách, nhưng ông có
bài thơ “Túc dã miếu” rất hay như sau: “Chúng hưởng tạm dĩ tịch, Trùng ư
phật diện phi, Bán song quan dạ vũ, Tứ bích quải tăng y” (Mọi tiếng dần
im lặng, Mặt tượng muỗi vi vu, Nửa song khép mưa tối, Bốn vách treo áo
sư).
I.16
Hai chữ “Nhạc phủ” là tên của cơ quan
giám sát trong cung đời xưa, thấy xuất hiện ở hai truyện Hoắc Quang và
Trương Phóng. Các bài nhạc chương như “Quân mã hoàng”, “Lâm cao đài”…
thất truyền đã lâu. Bởi vì trong “Nhạc phủ” khi sao chép khúc nhạc, dùng
chữ lớn để tả “từ”, chữ nhỏ để tả “thanh”, từ và thanh viết chung vào
như thế dễ bị nhầm lẫn. Vì thế người đời Ngụy đổi tên khúc “Tương tiến
tửu” gọi là “Bình quan trung”, khúc “Thượng chi hồi” gọi là “Bình quan
độ”, cả mười hai khúc đầu không noi theo người đời Hán. Người Tấn đổi
khúc “Tư bi ông” gọi là “Tuyên thụ mệnh”, khúc “Chu lộ” gọi là “Linh chi
tường”, gồm cả mười hai khúc đều không noi theo người Ngụy. Các ông Lý
Bạch và Lý Tường Cát đời Đường biết như vậy nên họ đều theo tên cũ mà
làm ra bài của mình. Các ông Đỗ Phủ, Nguyên Chẩn, Bạch Cư Dị cũng biết
như vậy nên tự mình làm lấy thơ mà sáng tác loại “Nhạc phủ” mới. Trong
bài tựa viết đầu tập thơ họ Đỗ, Nguyên Chẩn đã nói rõ, Trịnh Tiều cũng
nói rằng, “Nhạc phủ” đời nay, Thôi Báo lấy nghĩa nói ra tên, Ngô Cạnh
lấy việc mà giải thích đề mục, cũng như loại thơ đã thất truyền vậy.
Khúc “Tương tiến tửu” mà Lý Dư dùng để làm bài tựa truyện “Liệt nữ”,
khúc “Xuất môn hành” mà Lưu Mãnh không nói gì đến nỗi biệt ly, trong bài
“Thu hồ hành” mà Lương Võ Đế viết câu “Thần tượng Tản Quan san, Thử đạo
đương hà nan” (Sáng lên núi Tản Quan, Đường này không khó khăn), các
bài trên, nội dung đều chẳng liên quan gì đến đề mục, thế mà người đời
nay vẫn còn khăng khăng ôm lấy sách “Nhạc phủ giải đề”, cho là một bản
sách bí ẩn, rồi mô phỏng từng chữ từng câu, chẳng khác gì tự dưng vẽ ra
ma quỷ, chẳng có gì là bằng cứ, nhưng vẫn đặt lên đầu quyển để phô
trương mặt mũi, cũng ví như bọn người tự ý khoe khoang dòng dõi, nêu lên
những chức tước rất lớn của cha ông mình mà không biết rằng những cái
ấy không hề liên quan gì đến mình cả.
I.17
Sách “Tả truyện” chép đời Xuân Thu, chúa
nước Trịnh thiết tiệc sứ thần nước Tấn là Triệu Mạnh, có bảy người lên
đọc thơ để làm vui khách, có người đọc bài “Thuần bôn” [1],
Triệu Mạnh gạt đi mà rằng: “Câu chuyện buồng the không nên lộ ra khỏi
ngưỡng cửa, bài này không phải là bài sứ thần nên nghe”, thế thì các bài
cùng đọc lúc đó như “Dã hữu man thảo”, “Hữu nữ đồng xa” và “Thác hề”
đều không phải là thơ dâm loạn, đã rõ lắm vậy.
[1] “Thuần bôn” là bài thơ ở “Vệ phong” chế bà Tuyên Khương hủ hóa với công tử Ngoan.
I.22
Sách “Tam dư biên” nói rằng, nhà thơ
dùng sự tích không nên quá câu nệ, như trong bài “Trường hận ca” của
Bạch Cư Dị có câu “Nga My sơn hạ thiểu nhân hành” (Dưới chân núi Nga My
ít người đi), thực ra Đường Minh Hoàng vào Thục, có đi qua núi Nga My
đâu. Thơ Tạ Tuyên Thành có câu “Trừng giang tịnh như luyện” (Sông trong
sạch như lụa), thực ra Tuyên Thành cách sông đến hàng trăm dặm, xung
quanh huyện lỵ ấy không hề có con sông nào cả.
I.23
Người ta hay nói, người có tài lớn giống
như sông Hoàng Hà muôn dặm, cát và bùn đều trôi xuống. Tôi cho rằng, đó
là người có tài thô kệch, chứ không phải tài lớn, tài lớn thì phải như
nước biển liền trời, sóng cồn tắm nhật, cái người ta thấy đều là cung
vàng điện bạc, cỏ lạ hoa kỳ, làm gì có loại cát bùn làm nhơ con mắt
người ta!
Có người nói rằng, trong làng thơ, có
loại nhà thơ nổi tiếng, có loại nhà thơ lớn, nhà thơ lớn thì hơi pha tạp
cũng không hiếm gì, còn nhà thơ nổi tiếng thì phải chọn lọc từng chữ,
đo đắn từng câu mới được. Tôi cho rằng, nhà thơ nên tự xưng là nhà thơ
nổi tiếng để cho người đời sau xếp mình vào loại nhà thơ lớn, chứ không
nên tự xưng làm nhà thơ lớn, rồi để cho người đời sau đuổi mình ra ngoài
loại nhà thơ nổi tiếng. Tôi thường khuyên viên thái sử Tưởng Tâm Dư
rằng: “Anh nhất thiết đừng để tay già của mình rời rã, người có tài thì
gan phải to”, Tâm Dư cho là phải.
I.24
Làm hoành phi, câu đối ở các miếu thần
khó ở chỗ dùng thành ngữ mà giàu ý vị. Có nơi xây miếu thờ Thương Hiệt,
xin làm bức hoành, Hầu Gia Phiên cầm bút viết bốn chữ “Thủy chế văn tự”
(Bắt đầu đặt ra chữ). Mọi người đều khen là hay tuyệt. Có người xin đôi
liễn rạp hát, Diệu Niệm Tư tập thơ Đường cho câu “Thử khúc chỉ ưng thiên
thượng hữu, Tư nhân mạc đạo thế gian vô” (Khúc này họa chỉ trên đời có,
Người kia chớ nói cõi đời không). Tương Văn Mẫn cũng tập thơ Tống, làm
thành câu đối rạp hát như sau: “Cổ vãng kim lai chỉ như thử, Dạm trang
nồng mạt tổng tương nghi” (Nay tới xưa qua chỉ như thế, Bôi nồng tô đậm
thảy thích nghi). Ở rạp hát Tô Châu có tập cú câu đối như sau: “Bả vãng
sự kim triêu trùng đề khởi, Bá công phu minh nhật tảo la lai” (Đem
chuyện cũ hôm nay nhắc trở lại, Tốn công phu mai đến sớm hơn nhé!). Mấy
câu trên đều hay cả.
I.25
Tôi vốn không thích thơ của Hoàng Sơn
Cốc đời Tống, mà ý kiến của người xưa cũng có người tán đồng. Ngụy Thái
chê Sơn Cốc hay nhặt lấy những chữ người xưa đã loại bỏ mà dùng, tự khoe
là kỳ dị. Tô Đông Pha nói: “Đọc thơ Sơn Cốc như ăn con tù mâu (một loại
rạm biển) sợ phát phong động khí”. Quách Công Phủ nói: “Hoàng Sơn Cốc
làm thơ, nhất định phải hao phí khí lực như vậy, chẳng hiểu là vì lẽ
gì?”, Lâm Ngải Hiên nói: “Thơ của Tô Đông Pha như trang nam nhi ra ngoài
gặp khách, cứ cao bước ra ngay. Thơ của Hoàng Sơn Cốc như cô gái gặp
người, trước tiên còn khép nép làm bộ. Đó là sự hơn kém giữa hai ông
vậy”. Tôi cũng thường ví thơ của Sơn Cốc chẳng khác gì loại bách hợp
trong giống quả, hoặc loại đậu gươm trong giống rau, rốt cục vị kém.
I.26
Từ Ngưng Vịnh suối nước bay, có câu “Vạn
cổ thường nghi bạch luyện phi, Nhất điều giới phá thanh sơn sắc” (Muôn
thuở thường ngờ lụa trắng bay, Một đường vạch ngấn sắc núi biếc), đúng
là câu thơ hay, nhưng Tô Đông Pha lại chê là kém [1] vì
ý thơ chưa được siêu thoát, nhưng bài thơ hải đường của Đông Pha có
câu: “Chu thần đắc tửu vựng sinh kiểm, Thúy tụ quyển sa hồng ánh nhục”
(Môi son được rượu má đỏ hây, Áo thúy cuộn the hồng ánh thịt), so với
thơ của họ Từ có phần kém [2] hơn, thế mà người ta sợ
thanh danh ông Tô, không dám nói tới, vì thế, Ứng Thiều từng nói “theo
tiếng thì nhiều, xét âm thì ít” vậy.
[1][2] Chữ “kém” dịch
ép hai chữ “ác thi” vì dùng chữ “ác”, “xấu” đều không rõ, đành dịch tạm
như thế. Mấy câu thơ ấy mà gọi là “ác thi” và “chưa siêu thoát” không rõ
vì nghĩa lý gì?
I.27
Ông cử nọ có câu thơ “Lập thệ càn khôn
bất thụ ân” (Xin thề trời đất, chẳng mang ơn), ý muốn khoe khoang phong
cách đứng đắn của mình vậy. Tôi gửi thư răn ông ta rằng, người ta ở đời,
làm sao mà không mang ơn của người khác được; người đời xưa cao thượng
như Đào Tiềm chỉ xin có một bữa ăn mà còn báo đáp trong cõi u minh; Đỗ
Phủ tự hẹn phải như Tắc, Tiết thế mà cảm ơn Tôn Hạnh giúp đỡ, đến nỗi
xin kết nghĩa anh em; Phạm Trọng Yêm là người thế nào mà chỉ vì Yến Công
một lần tiến cử mình, bèn trọn đời giữ lễ học trò. Bởi vì, trên hết quý
đức, thứ ra cần biết bố thí đền bồi, cái đó thánh nhân không hề kiêng
giấu. Như hai câu thơ của Thương Bảo Ý sau đây thì không hề kiêu căng:
“Danh tâm vị liễu nan di thế, Vãn cảnh vô đa phạ thụ ân” (Danh lợi còn
đeo không thoát tục, Cảnh già chẳng mấy sợ mang ơn). Thơ của Tưởng Thiện
Sinh cũng thế, như câu: “Bất thị vi cầm trồ đại huệ, Chỉ sầu vô xứ mịch
Kim hoàn” (Phải đâu chim nhỏ từ ơn lớn, Chỉ sợ không nơi kiếm xuyến
vàng [1]), hai nhà thơ này đều không giành thân phận mà thân phận càng cao.
[1] Sách “Chí dị” chép: Vu Bảo xưa cứu sống con chim sẻ nhỏ, sau nó ngậm vành vàng đến tạ ơn.
I.29
Phương Vọng Khê sửa chữa văn của tám nhà
văn lớn các đời Đường, Tống, Khuất Hối Ông thì chữa thơ Đỗ Phủ, người
ta cho là càn rỡ, tôi cho rằng, nếu tám nhà văn lớn và Đỗ Phủ sống lại,
tất cũng có chỗ họ cúi đầu suy nghĩ, cho chữa như vậy là đúng, mà cũng
có chỗ họ tranh cãi qua lại mà không nghe theo. Tóm lại nếu đem từng câu
từng chữ ra mà bới vạch thì dù văn chương của Lục Kinh vẫn có chỗ đáng
bàn cãi, cho nên chẳng cần gì hai ông ấy bỏ ruộng mình mà cuốc cỏ ruộng
người khác vậy.
I.31
“Nghi vu tập” của Vương Thứ Hồi triều ta
là một tập thơ viết về phụ nữ rất hay, tiếc rằng ông ta chỉ có thành
tựu về môn thơ ấy thôi, ông Thẩm Quy Ngu chọn lọc thơ bản triều, bỏ ra
ngoài, không thèm ghi, sao mà kiến thức hẹp hòi như vậy? Tôi viết thư
hỏi vặn ông Thẩm rằng, thơ “Quan Thư” mở đầu “Quốc Phong”, liền nói đến
tình trai gái, Khổng Tử bỏ bớt thơ “Kinh Thi”, nhưng vẫn bảo tồn thơ
“Trịnh”, “Vệ”, sao riêng ông lại không chọn thơ của Thứ Hồi? Họ Thẩm
cũng không biết lấy gì mà trả lời. Lý Phi đời Đường chê thơ của các ông
Nguyên Chẩn, Bạch Cư Dị là dâm, diễm, phóng túng, là người có tội với
danh giáo, rốt cục, sau ngàn năm, người ta chỉ biết có Nguyên, Bạch, mà
không biết có Lý Phi.
I.32
Tôi đùa khắc một con dấu để dùng riêng, trên có câu thơ “Tiền Đường Tô Tiểu thị lương thân” (Tô Tiểu Tiền Đường [1]
là người quen). Viên thượng thư nọ qua Kim Lăng, đòi xem tập thơ của
tôi, tôi tùy tiện đóng con dấu ấy mà đưa, ông quở trách rất gắt, ban đầu
tôi còn xin lỗi, sau ông ta cứ quở mãi, tôi bèn nghiêm sắc mặt mà nói
rằng: “Ngài cho con dấu ấy là thối tha ư? Cứ hiện nay mà nói, cố nhiên
ngài là quan nhất phẩm, Tô Tiểu Tiểu là hèn mọn, nhưng e rằng, sau trăm
năm, người đời chỉ biết có cô Tô Tiểu Tiểu ấy mà không còn biết có có
ngài nữa”, cả nhà đều cười.
[1] Tô Tiểu Tiểu là một kỹ nữ nổi tiếng hay thơ đời xưa.
I.34
Sách thi thoại của Tống Dung Đường chê
Bạch Cư Dị khi ở Hàng Châu, thơ nhớ kỹ nữ nhiều hơn thơ nhớ dân, đó là
một lời bàn kỳ quặc và hủ lậu, thử xem tại sao trong thơ “Quan thư”, vua
Văn Vương trằn trọc, vật vã, không nhớ Thái Vương, Vương Quý mà chỉ nhớ
thục nữ, Khổng Tử bị kẹt ở Trần, Thái, không nhớ vua nhà Lỗ mà chỉ nhớ
bọn học trò?
I.37
Người ta lo làm điều gì đã lâu mà không
thành thì ý tứ nhạt dần. Tú tài Hà Thượng Ngu có câu thơ cảm hoài “Thân
phi vô dụng bần thiên hạ, Sự đáo nan đồ niệm chuyển bình” (Thân nào vô
dụng nghèo nên rảnh, Việc đến khôn lo ý lại yên) thật là một câu nói sau
khi đã giác ngộ. Ông ta lại có câu “Bần do mãi tiếu vi thân lụy, Lão
thượng đa tình hoặc thọ trưng” (Nghèo còn chơi gái lụy mình thật, Già
vẫn đa tình điềm thọ chăng?) và câu “Thư nhân bổ độc tùy thời triển, Thi
vị lưu san tận số sao” (Sách bởi đọc bù tùy lúc mở, Thơ dành phần chữa
chép không dư), thật là những câu thơ đầy ý nghĩa. Sau khi ông mất, tôi
cho người hỏa tốc tới nhà tìm bản thảo, được hơn ba trăm bài bèn đưa in
để lưu hành.
I.42
Lục Lỗ Vọng qua thăm nhà cũ của Trương
Thừa Cát ở Đan Dương, từng khen rằng “Thừa Cát khéo mô tả cảnh đẹp, cảnh
ở chỗ này không thể đặt sang chỗ khác, đó là tài tử bậc nhất”. Tôi rất
thích câu nói ấy, từ xưa, văn chương sở dĩ lưu truyền được đến đời nay
đều là nhờ có tài tức cảnh, tức tình, như tạo hóa un đúc, động đến là
thành màu xuân, cho nên lấy không hết mà dùng không kiệt, nếu không như
thế, thì tất cả mọi lời, người xưa đã nói hết, sao các tài tử ở đời
Đường, Tống, Nguyên, Minh đưa ra sau đó, đều có thể thành các nhà thơ
riêng mà quang cảnh thường mới được? Tức như việc mời một người khách,
thiết một bữa yến, mở miệng nói đến đều phải có phân tấc nhất định, sát
với người ấy việc ấy, không thể vay mượn tơ tóc, mới là mô tả cảnh đẹp,
nếu thơ làm hôm nay, mai cũng dùng được, thơ tặng người này cũng có thể
đem tặng người khác, đó tức là loại văn chương sáo, rỗng, cũ kỹ rất mực
vậy.
I.43
Tôi mọi khi làm thơ vịnh cổ hay vịnh
vật, thế nào cũng lục tìm hết sách vở có liên quan đến đầu bài ấy, nhưng
khi thơ làm xong thì không hề dùng một điển nào, tôi thường nói rằng,
có điển mà không dùng, cũng như người có quyền thế mà không buông tuồng
lạm dụng.
I.44
Bàn tay con gấu, bào thai con báo là
thức ăn rất quý, nếu mà ăn tươi, nuốt sống thì không bằng rau, măng; mẫu
đơn, thược dược là loại hoa rất đẹp, nếu cắt giấy ra mà làm thì không
bằng hoa quỳ, hoa liễu. Vị ăn cho tươi, phong thú phải cho thật, người
ta có biết điều đó, sau mới có thể nói đến thơ.
I.45
Ông Ngạc Dung An thích làm thơ, có nhiều
câu hay, như thơ “Ngủ trọ chùa” có câu “Sơ địa tương phùng nhân tự cựu,
Tiền thân an kiến ngã phi tăng” (Người mới gặp nhau ngờ biết cũ, Kiếp
xưa sao biết tớ không [phải là] sư) và thơ khóc vợ có câu “Thương tâm
tối thị hoài trung nữ, Thác nhận trường miên tác mạn miên” (Đau lòng gái
nhỏ trên tay bế, Mẹ chết ngỡ là tạm ngủ chơi).
Người ta có tự học mới biết mình chưa
đầy đủ, cho nên những ai cho mình đầy đủ rồi, đều là người vô học, chả
trách gì họ hay khoe khoang. Ngạc Công đề chùa Cam Lộ có câu “Đáo thử dĩ
cùng thiên lý mục, Thùy tri tài thượng nhất tằng lâu” (Đến đấy đã nhìn
cùng ngàn dặm, Ai hay mới đến một tầng lầu); Phương Tử Vân làm thơ “Ngẫu
thành” có câu “Mục trung tự vị không thiên cổ, Hải ngoại thùy tri hữu
cửu châu” (Trong mình tự nghĩ hơn ngàn thuở, Ngoài biển ai hay có chín
châu).
I.46
Người xưa nói rằng, thơ của Bạch Cư Dị
câu nào cũng tỏ ra thoải mái dễ chịu nên tính ông ta hiền hòa dễ dãi,
thơ của Vương An Thạch câu nào cũng không thoải mái dễ chịu nên tính ông
ta câu nệ trái nết. Tôi cho rằng, cổ văn của Vương An Thạch sát hẳn Hàn
Dũ, người đời Tống không ai sánh kịp, còn đối với thơ thì suốt đời ông
ta chỉ là người khách ngoài cửa.
I.48
Kỹ nữ nọ có câu thơ tặng biệt “Lâm kỳ kỷ
điểm tương tư lệ, Trích hướng thu giai phát hải đường” (Chia tay mấy
giọt tương tư lệ, Nhỏ xuống thềm thu nở hải đường), đó là câu nói đa
tình, đến như câu thơ tặng kỹ nữ của Trang Tôn Phục “Bằng quân mạc thức
tương tư lệ, Lưu trứ minh triêu cánh tống nhân” (Xin nàng chớ gạt tương
tư lệ, Dành để ngày mai lại tiễn người) rõ ràng nói toạc ra, nhạt phèo
như gặm sáp. Đông Hải Pháp có câu thơ viếng Tỳ Bà đình “Tư Mã thanh sam
hà tất thấp, Lưu tương lệ nhãn khốc thương sinh” (Áo xanh Tư Mã cần gì
ướt, Để dành nước mắt khóc nhân dân) cũng là loại câu nói làm mất hứng
thú.
I.49
Có người điếu viên quan to chết bệnh với
đôi câu đối như sau: “Đường thâm nhân bất tri hà bệnh, Thân quý y tranh
thí nhất phương” (Nhà kín bệnh gì chẳng ai biết, Thân sang thầy thuốc
thử từng phương) thật là nói rõ tình trạng ốm đau của bọn quyền quý.
I.50
Trần Tinh Trai đề bức vẽ có câu “Thu tự
mỹ nhân vô ngại sấu, Sơn như hảo hữu bất hiềm đa” (Thu như người đẹp gầy
không ngại, Núi tựa bạn hiền nhiều càng hay). Trong bài thơ “Thượng hồ
vãn bộ” của ông Trưng Sĩ có câu “Hữu như tác họa tu cầu đạm, Sơn tự luân
văn bất kỷ bình” (Bạn như vẽ cảnh cần cho nhạt, Non giống bàn văn chẳng
thích bằng), mấy câu trên đều cùng một phong điệu.
I.51
Hồi người Thanh vào đánh chiếm Trung
Quốc, thành Giang Âm ra hàng sau cùng, lúc đó trong thành xác chết chồng
chất, thối không chịu nổi, có người con gái bị lính Thanh bắt, cô nhảy
xuống sông tự vẫn, trước đó, cô cắn ngón tay lấy máu đề câu thơ rằng:
“Ký ngữ lộ nhân hưu yểm tị, Hoạt nhân bất cập tử nhân hương” (Nhắn khách
đi đường đừng bịt mũi, Người sống không bằng người chết thơm).
II.3
Đỗ Phủ có nói, nhiều người làm thầy của
ta, không phải chọn người đáng làm thầy mà học họ đâu, dù cho một câu,
một tiếng của các em thôn quê hay các em chăn trâu đều là thầy của chúng
ta, nếu ta khéo nhặt lấy thì đều thành câu thơ hay. Người gánh phân
trong Tùy Viên, một hôm về tháng mười, anh ta ngồi dưới gốc mai bỗng vui
mừng mà nói rằng, cây mai mọc hoa đầy thân rồi, do đó, tôi có câu thơ
“Nguyệt ánh trúc thành thiên cá tự, Sương cao mai dựng nhất thân hoa”
(Trăng dọi trúc thành ngàn con chữ, Sương cao mai nở một thân hoa). Một
hôm tôi đi xa, có nhà sư thông dã tới tiễn đưa mà nói, tiếc thay hoa mai
trong vườn nở rộ mà ông không mang đi được. Nhân đó tôi có câu thơ “Chỉ
liên hương tuyết mai thiên thụ, Bất đắc tùy thân đái thượng thuyền”
(Tiếc thay thơm tuyết mai ngàn gốc, Không thể mang theo lên thuyền
được).
II.4
Hễ các tác phẩm của người xưa đã thất truyền thì người sau làm bù vào đều không thể hay, là vì tính tình bị câu thúc vậy [1]. Như tác phẩm còn đó mà người sau đọc thấy âm điệu chẳng ra làm sao [2].
[1] Bản Uông – Đường dịch là “… nguyên do đều vì tính tình không giống với người xưa”
[2] Bản Uông – Đường dịch là “Tác phẩm của họ còn đó mà người sau rất ít tiếp thu chúng”
[2] Bản Uông – Đường dịch là “Tác phẩm của họ còn đó mà người sau rất ít tiếp thu chúng”
II.6
Trương Duyệt đời Đường cho thơ của Diêm
Triều Ẩn như người ăn mặc lòe loẹt, tránh sao khỏi làm người có tội với
Phong Nhã. Vương An Thạch nhân đó làm ra lời “Tự thuyết” trong có câu
“Thơ là tự ngôn vậy [1], tự là chỗ ở của chín quan
khanh, không phải là lời nói lễ phép thì không nên vào, cho nên Khổng Tử
nói là “tư vô tà” (nghĩ không lệch)”. Gần đây có viên thái sử nọ kính
cẩn giữ lời nói ấy, bạ đâu cũng nói là xem thơ có thể biết phẩm cách của
con người. Tôi bèn đọc lại thơ tặng gái điếm của ông Lý Văn Chính cho
nghe như sau: “Tiện khiên hồn mộng tàng kim nhật, Tái đổ thuyền quyên
thị kỷ thời” (Vấn vương hồn mộng từ nay nhỉ, Gặp lại thuyền quyên ấy lúc
nào?). Lời thơ thật là tình sâu một mạch, do cõi lòng phát ra, mà ông
Văn Chính là một vị công thần mở nước, có hại gì đến phẩm cách con người
đâu. Thiên “Hàm thần vụ” trong “Hiếu kinh” nói rằng: Thơ là “trì” (giữ
gìn) vậy, bảo trì tính tình để khỏi mất đi, ý này có phần đúng hơn ý của
Vương An Thạch.
[1] “Tự ngôn” hợp lại thành chữ “thi”. “Tự” lại có nghĩa là cơ quan của nhà nước, như Đại lý tự chẳng hạn.
II.7
Lưu Chiêu Võ nói rằng, một bài thơ ngũ
ngôn luật (gồm tám câu), cả bốn mươi chữ phải như bốn chục người hiền,
trong đó vướng phải một chú lái buôn thịt là không được. Tôi thường dạy
các thiếu niên học thơ nên bắt đầu từ loại thơ ngũ ngôn luật, thì trên
có thể với tới thơ cổ phong, dưới có thể tiếp liền thơ thất luật.
II.15
Chữa thơ khó hơn làm thơ, sao vậy? Là vì
lúc làm thơ, ý hứng phát sinh trong đầu óc, dễ dàng mà làm nên bài, còn
khi chữa thơ thì ý hứng đã qua rồi, đại cục đã xong rồi, chỉ còn một
vài chữ trong lòng áy náy, dùng hết muôn vàn khí lực mà thay đổi cũng
không xong, có khi, sau một vài tháng, trong khi không cố ý lại tìm được
chữ hay, đúng như Lưu Ngạn Hòa nói: “Giàu với ngàn bài, quẫn vì một
chữ”, thật là câu nói “ngọt bùi từng trải”. Tuân Tử nói rằng: “Có người
làm mất cái kim, tìm mãi không được, bỗng dưng lại được, không phải mắt
có sáng thêm, “mâu” mà được vậy”. Chữ “mâu” ở đây, có nghĩa là ngẫu
nhiên liếc đúng chỗ vậy. Thơ Đường có câu “Tận nhật mịch bất đắc, Hữu
thời hoàn tự lai” (Suốt ngày tìm không được, Có lúc nọ tự đến) ý nói
“mâu” (liếc) mà được vậy.
II.17
Ông Doãn Văn Đoan bàn thơ rất tinh tế,
có nêu lên thuyết “sai nửa chữ”, như thơ Đường có câu “Dạ cầm tri dục
vũ, Vãn đạm giác tân thu” (Đàn đêm biết muốn mưa, Chiếu chiều thấy thu
mới), hai chữ “thu mới” là từ hiện thành, còn hai chữ “muốn mưa” thì lấy
chữ “muốn” để đề lên chữ “mưa” không phải là từ hiện thành, thế là sai
nhau nửa chữ. Do loại ấy mà suy rộng ra thì có nhiều nhà thơ nổi tiếng
cũng phạm phải bệnh ấy, như hai câu thơ trên thì phải đổi câu sau làm
“Vãn đạm cáp nghi thu” (Chiếu chiều vừa hợp thu), dùng chữ “nghi” mới
đối được với chữ “dục”.
II.22
Khoảng năm Khang Hy, Tào Luyện Đình làm ở
xưởng chế tạo Giang Minh, mỗi lúc đi xe ra vào nhất định đều cầm một
quyển sách để xem, người ta hỏi ông sao ham học quá, ông nói: “Không
phải thế đâu, tôi không phải là quan địa phương, mà nhân dân trông thấy
tôi thế nào cũng đứng dậy, lòng tôi áy náy nên vờ làm như thế để che mắt
mà thôi.” Ông vốn bất hòa với viên thái thú Giang Minh là Trần Bằng
Niên, lúc Trần bị tội, ông lại dâng tờ sớ bí mật tiến cử Trần, vì thế
được người ta trọng. Con của ông là Tào Tuyết Cần soạn bộ sách “Hồng Lâu
Mộng”, chép đủ cảnh phong nguyệt phồn hoa, trong có cái vườn Đại quan
tức là Tùy Viên của tôi. Lúc đó có cô gái hồng lâu (gái điếm hạng sang)
rất đẹp, Tuyết Cần tặng bài thơ rằng: “Bệnh dung tiều tụy thắng đào hoa,
Ngọ hạn triều hồi nhiệt chuyển gia, Do khủng ý trung nhân khán xuất,
Cưỡng ngôn kim nhật hiệu sai ta” (Dung nhan tiều tụy quá hoa đào, Trưa
sốt quay về nóng trở cao, Còn sợ người yêu nhìn thấy rõ, Gượng rằng nay
đã bớt phần nào). Và bài nữa: “Uy nghi đệ đệ nhược xuất ba, Ứng bả phong
lưu đoạt ỷ la, Bất tự tiểu gia câu thúc thái, Tiếu thời thiên thiểu mặc
thời đa” (Uy nghi nhàn nhã nước sinh hoa, Hẳn lấy phong lưu thể lụa là,
Khác bọn tiểu gia vẻ câu thúc, Cười thì có ít lặng thì nhiều).
II.24
Trước đây tôi đọc bài thơ vịnh núi Tiểu
Cô của tú tài Tôn Thiều rằng: “Giang tâm đột ngột túng cô loan, Phiếu
diểu hoàn nghi nguyệt lý khan, Tuyệt tự lăng vân nhất chi bút, Dạ thâm
hoành tháp thủy tinh bàn” (Lòng sông đột ngột dựng non cô, Thấp thoáng
ngờ xem giữa nguyệt mờ, Giống đứt ngất trời một cây bút, Đêm khuya mâm
ngọc cắm ngang vô), sau đi ngang núi ấy, mới biết câu thơ ấy thật là
hay.
Ngoài lề: ỏ.õ Không hiểu sao mình thấy câu “Tuyệt tự
lăng vân nhất chi bút” dịch thành “Giống đứt ngất trời một cây bút” hơi
ba trấm, hỏi Nguyên Vi hắn bảo “nghĩa là giống như một cây bút chọc vỡ
mây”, còn tìm giúp mình câu nguyên văn “绝似凌云一枝笔”, đa tạ tiểu bảo bối :”)Nhân tiện, nhờ bảo bối tìm và dịch nghĩa luôn cả bốn câu ”江心突兀耸孤峦, 飘渺还疑月里看, 绝似凌云一枝笔, 夜深横插水晶盘” (giữa lòng sông đột ngột dựng đứng một ngọn núi lẻ, ẩn hiện còn ngỡ rằng trông thấy giữa bóng trăng, (núi) trông giống như một ngọn bút chọc vào mây, đêm khuya tựa như cắm xuyên qua một cái mâm bằng thủy tinh), đa tạp tập hai X”)
II.28
Lưu Tăng đọc “Văn tuyển” bên đèn, mệt
nằm ngủ quên, mơ màng thấy một người ăn bận áo mão đời xưa nói với ông
ta rằng: “Văn các đời Ngụy, Tấn là thơ trong văn, thơ các đời Tống,
Nguyên là văn trong thơ”. Tỉnh dậy nói lại với tôi, tôi nói, luận điểm
của tôi vốn là như thế.
II.36
Mao Tây Hà chọn thơ hay của giới phụ nữ,
mà bỏ sót thơ của cô gái Sơn Âm, tên là Vương Đoan Thục, Vương gửi cho
ông ta câu thơ “Vương Tường vị tất vô nhan sắc, Tranh nại Mao quân bút
hạ hà” (Vương Tường vị tất không phải đẹp, Dưới bút ông Mao [1] biết tính sao?), một bên là giấu tên mình, một bên là ám chỉ Mao Tây Hà.
[1] Mao Diên Thọ đời Hán vẽ xấu nàng Vương Tường (Vương Chiêu Quân) để nàng bị gả cho chúa Hồ, đây mượn để chỉ Mao Tây Hà.
II.39
Về cổ văn, triều Thanh có Phương Vọng
Khê, cũng như về thơ có Vương Nguyễn Đình, đều là dòng chính trong một
triều đại mà tài lực có phần mỏng manh, người cận đại mà suy tôn hai ông
ấy, thế nào thơ văn cũng yếu, trái lại, nếu ai chê bai hai ông ấy, thế
nào thơ văn cũng thô, đúng như người ta hay nói: “Nịnh Phật là ngu, mà
bài trừ Phật là viển vông”.
II.41
Làm người không thể không phân biệt giữa
nhu mì và nhu nhược, giữa cương cường và cường bạo, giữa kiệm ước và
biển lận, giữa trung hậu và hôn ngu, giữa sáng suốt và khắc bạc, giữa tự
trọng và tự đại, giữa tự khiêm và tự tiện, mấy cái đó hình như giống
nhau mà thực khác nhau; còn làm thơ thì không thể không phân biệt giữa
bình đạm và khô khan, giữa tân kỳ và tiêm xảo, giữa mộc mạc và vụng về,
giữa cường kiện và thô bạo, giữa hoa lệ và khinh phù, giữa thanh tú và
mỏng manh, giữa trọng hậu và cứng đờ, giữa tung hoành và tạp loạn, mấy
cái đó hình như giống nhau mà kỳ thực khác nhau, sai một ly đi một dặm.
III.1
Tôi thường nói với người ta rằng, tài
thì muốn cho lớn, chí thì muốn cho nhỏ. Tài lớn thì làm việc thừa sức,
chí nhỏ thì muốn gì đều thỏa mãn. Khổng Dung chí lớn tài sơ rốt cục bị
nạn, Bính Man Dung không chịu làm quan bổng quá sáu trăm thạch, thành ra
suốt đời an nhàn, Đổng Nhị Thụ có câu thơ “Sở dục bất cầu đại, Đắc hoan
thường hữu dư” (Cái muốn không cầu lớn, Được vui thường có thừa), thật
là câu nói thấu đáo.
III.2
Dụng binh là việc nguy mà Triệu Quát nói
một cách dễ dàng, cho nên mới thua trận, làm thơ là việc khó mà Lý Lão
nói một cách dễ dàng, cho nên thơ ông quê mùa. Đường Tử Tây nói rằng:
“Thơ mới làm xong chưa thấy chỗ nào đáng chê, tạm để đấy, ngày mai lấy
ra đọc thì thấy sai phạm lung tung, bèn sửa chữa mãi, cách vài hôm đem
ra xem, lại thấy sai phạm, lại sửa chữa thêm, như vậy đến vài bốn lần
mới dám đem ra cho người khác xem.” Mấy câu này đúng là người biết khó
mà dùng sức sâu sắc. Nhưng cũng có lúc, một khi cơ trời đã đến thì nhất
thiết không thể chữa nữa. Trong bài “Tục thi phẩm” của tôi có câu “Tri
nhất trùng phi, tiến nhất trùng cảnh, Diệc hữu sinh kim, nhất chú nhi
định” (Biết một lần sai, tiến lên một trùng, Cũng có vàng sống, một đúc
là xong).
III.3
Có người hỏi tôi rằng, thơ triều ta ai
là đệ nhất? Tôi hỏi vặn trở lại rằng, ba trăm bài thơ ở “Kinh thi”, anh
cho bài nào là đệ nhất? Anh ta không trả lời được. Tôi bèn giải thích
cho anh hiểu rằng, thơ cũng như hoa cỏ trời sinh, xuân lan thu cúc đều
tốt về từng mùa, không cho phép người ta xem bên nào hơn, bên nào kém;
bài nào mà âm luật, phong phú rung động lòng người, mắt người, tức là
thơ hay, chẳng có gì gọi là đệ nhất, đệ nhị; nhưng cũng có bài do ở chỗ
đặc biệt thành công mà bàn, như câu thơ “Bất sầu minh nguyệt tận, Tự hữu
dạ châu lai” (Sầu gì minh nguyệt hết, Đã có dạ châu sang), người ta hay
nói thơ Dương Nhữ Sĩ áp đảo Nguyên Bạch là thế; cũng có khi tóm cả toàn
cục mà bàn, như nhà Đường thì lấy họ Lý, họ Đỗ, họ Hàn, họ Bạch làm nhà
thơ lớn, nhà Tống thì lấy họ Âu, họ Tô, họ Lục, họ Phạm làm nhà thơ
lớn. Nếu nhất thiết chỉ lấy một người để trùm lên cả một triều đại thì
như hoa mẫu đơn được gọi là vua hoa, mà hoa lan cũng cũng được gọi là
hương của vua, đối với cỏ cây còn không thể cho loại nào là đệ nhất,
huống gì là thơ.
III.7
Vương Thủ Nhân đời Minh nói rằng: “Đối
với thơ văn của người ta, trước hết phải lấy ý chân thực, như trẻ con rủ
đôi bím tóc mà vái chào, tự nhiên thấy đẹp, nếu mang mặt nạ đeo râu
vào, làm bộ lom khom thì sẽ khiến cho người ta đâm ghét.”
Cố Ninh Nhân viết thư cho tôi, có đoạn
nói: “Thơ văn của túc hạ không phải không hay, khốn nỗi lúc hạ bút cứ để
một họ Đỗ, một họ Hàn ở trong lòng, không sao làm ngơ đi được, vì thế
mà thơ văn không đến vậy.”
III.8
Vương Mạnh Lân nói rằng: “Gia số trong
làng thơ cũng như nha môn trong quan trường, nói về nha môn, nha môn
tổng đốc là lớn, nha môn điển sử là nhỏ, nhưng nếu đem người gánh nước ở
nha tổng đốc mà so với viên điển sử ở nha điển sử thì thà làm điển sử
chứ không ai làm người gánh nước, sao vậy? Là vì điển sử tuy nhỏ vẫn là
chức quan triều đình, còn như nha môn của người gánh nước kia tuy tôn
quý mà chẳng liên quan gì đến anh ta, cũng như người đời nay học thơ Đỗ,
Hàn không thành công mà vẫn hơn hớn cho mình thuộc loại đại gia, chẳng
qua chỉ là người gánh nước trong nha môn tổng đốc mà thôi.”
Diệp Hoành Sơn nói rằng: “Những người
thích mô phỏng thơ của người xưa, nếu bắt chước mà giống thì như áo mão
của bọn phường tuồng, bắt chước mà không giống thì như vẽ cọp giống chó,
đi mượn hơi hám của người ta để rồi huênh hoang lên mặt, chi bằng cam
làm chức thiên tỳ (võ biền nhỏ) mà tự nắm một đội quân!”
III.9
Loại thơ cận thể của
Tô Đông Pha ít công phu un đúc rèn luyện cho nên lời hết mà ý cũng hết,
tuyệt nhiên không có âm vị gì ở ngoài lời thơ cả, Nguyễn Sĩ Trinh cho là
loại thơ ấy không phải là môn sở trường của Tô Đông Pha, người sau
không nên bắt chước, lời nói ấy là đúng. Nhưng Mao Tây Hà lại chê bai
quá đáng. Có người đọc câu thơ “Xuân giang thủy noãn áp tiên tri” (Sông
xuân nước ấm vịt biết trước) của Tô Đông Pha, cho rằng đó là câu thơ hay
trong loại thơ cận thể của ông, Tây Hà gạt đi mà rằng: “Thế thì sông
xuân nước ấm chỉ có vịt biết mà ngỗng không biết hay sao?” Câu nói này
thật là hồ đồ quá. Nếu theo cách ấy mà bàn thơ thì cả ba trăm bài thơ
“Kinh thi”, câu nào cũng sai cả. Như câu “Tại hà chi châu” (ở trên bãi
sông) thì các loại chim minh cưu, ban cưu đều ở đó được, hà tất phải là
chim thư cưu! Câu “chỉ vu khâu ngu” (đậu ở góc đồi) thì các loại chim
trắng, chim đen đều đậu được cả, hà tất phải nói chim vàng?
III.14
Tôi rất thích lời bàn
về thơ của Chu Lịch Đình như sau: Thơ để nói lên mối tình của ta, cho
nên ta muốn làm thì làm, không muốn làm thì thôi, chứ không hề có ai
miễn cưỡng đốc thúc, bắt ta nhất định phải làm cả. Vì thế ba trăm bài
thơ trong “Kinh thi” nói ra đúng như lòng mình, không ghi họ tên, không
để ý gì đến việc truyền thơ, cũng không có ý gì về việc người sau truyền
lại thơ mình, ôi, sở dĩ thơ rất hay là nhờ đấy chăng? Người đời nay
muốn mượn điều làm thơ để tỏ ra học rộng và đua đòi thanh danh là lầm
vậy.
III.36
Thơ tuy kỳ vĩ mà không
rèn luyện tinh tế thì cũng là tài thô kệch, thơ tuy cao cả mà không mở
mang khai thác thì khuôn khổ cũng chật hẹp. Người có tài, khi phóng ra
thì đầy sáu cõi, khi thu lại thì trong gang tấc, gươm lớn sát trời, kim
vàng thêu thùa, chỉ là một vậy. Gia Cát ở nhà gianh, đi cày ruộng, bỗng
cầm quân sáu lần xuất chinh, Hàn Thế Trung
thủ tướng đời trung hưng, lại có khả năng dạo chơi Tây Hồ. Thánh nhân
lúc đắc dụng thì ra làm, lúc bị bỏ rơi thì về nghỉ, có thể co, có thể
duỗi, thơ cũng như thế. Người ta nói, về nghề viết chữ, Khổng Bắc Hải
như voi không bằng Vương Hữu Quân như rồng, cũng là ý ấy. Tôi thường răn
Tưởng Tâm Dư rằng: “Khí của anh át cả chín châu, nhưng làm to thì được
làm nhỏ không được, phóng ra thì được thu vào không được, cứng rắn thì
được mà không biết kế thừa”. Tâm Dư rất phục và nói “Hôm nay tôi mới
được người thầy chân chính”.
III.68
Hoàng Tử Vân ở Tô Châu, biệt hiệu Dã
Hồng, tuy là người dân thường nhưng có tài làm thơ, có viên trung thừa
nọ muốn gặp, ông ta không ưng, đề câu thơ rằng: “Không cốc y quan phi dị
cấu, Dã nhân môn hạng bất khinh khai” (Áo mão rừng hoang không dễ thấy,
Cửa nhà thôn dã nào dễ mở). Có hôm khách đến, ông mổ gà làm cơm mời ăn
và giữ lại ngủ đêm, cha con ông đọc sách suốt đêm, khách khen là ham
học, ông nói “Đâu phải, cha con tôi chỉ có cái chăn, nhường để đãi
khách, chẳng biết ngủ ra sao, bèn tạm đọc sách đó thôi.”
IV.29
Thơ quý đạm, nhã, mà cũng không nên có
mùi thôn dã, sao vậy? Là vì những người hay thơ đời xưa như Ứng, Lưu,
Bào, Tạ, Lý, Đỗ, Hàn, Tô đều là quan chức, không phải người thôn dã.
Người quân tử đọc vỡ muôn quyển cũng phải lên miếu đường, xem núi sông,
giao du với người giỏi trong bốn biển, sau đó, khí cục và kiến giải tự
nhiên rộng lớn, lại có bạn tốt giũa mài, tự nhiên tinh thông tiến bộ,
nếu không chỉ khăng khăng vui với chim hót trùng ngâm, tuy cũng có chỗ
hay nhưng khuôn khổ cố nhiên chật hẹp, trong bài “Diêm thiết luận” của
Hoàn Khoan có câu “Nhà nho quê mùa không bằng kẻ học trò nơi phố thị”
quả đúng là vậy.
IV.42
Người đời nay hễ bàn đến thơ thì cứ quý
hậu (dày) mà khinh bạc (mỏng), đó cũng chỉ là lời nói “nghe rằng”, không
biết rằng nên hậu hay nên bạc đều nhìn vào chỗ có tốt hay không mà
định. Nói về hai vật thì da hồ quý hậu, lụa là quý bạc; nói về một vật
thì sống dao quý hậu, lưỡi dao quý bạc; phải đâu hậu nhất định phải quý
mà bạc nhất định phải khinh. Nói về thơ của cổ nhân, thơ Đỗ Phủ dường
như hậu, thơ Lý Bạch dường như bạc, thơ Lý Nghĩa Sơn dường như hậu, thơ
Ôn Phi Khanh dường như bạc, mà họ đều là nhà thơ nổi tiếng cả. Cũng như
bàn về cách giao du, người ta hay nói người sâu sắc khó giao du, không
biết rằng người nông cạn cũng khó giao du.
IV.47
Làm thơ mà tự mình chú thích xuất xứ,
người xưa không hề làm. Trong bài chê Nguyên Chẩn chua bài bia ở quán
Đồng Bách, Âu Dương Tu đã nói tường tận rồi, phương chi, làm thơ mà phải
chờ chú thích đã không phải loại thơ hay. Ông Hàn Môn làm bài thơ “Văn
yên” (Xông muỗi) gồm 12 vần mà chú thích đến 8 hàng, đó là văn sách nói
về muỗi chứ không phải là thơ muỗi. Nhưng ông ta có bài thơ “Vịnh tơ
liễu”, trong đó có câu “Thán tức xuân phong cánh hà ý, Đoàn nhu vô xứ
bất thành miên” (Than thở gió xuân sao lại thế, Vo tròn đâu cũng trở
thành bông), lời thật thanh diệu.
IV.53
Có người hỏi rằng, bảy thi gia đời Minh
mô phỏng thơ Đường, Vương Nguyễn Đình cũng mô phỏng thơ Đường, nhiều
người thích thơ Nguyễn Đình mà ít ai thích thơ của bảy thi gia kia, là
tại làm sao? Tôi nói: “Bảy thi gia đời Minh hay khua chuông gõ trống,
hát lên những âm điệu cung thương, lớn lao, dễ bị người ta chán, còn
Nguyễn Đình thì khéo gảy đờn thổi sáo, hát lên điệu trưng, giốc nhẹ
nhàng, dễ lọt tai người nghe. Nhưng trong bảy thi gia đời Minh, có người
như Lý Không Đồng, tuy không có tính tình mà có khí phách, còn Nguyễn
Đình thì cả tính tình lẫn khí phách đều kém, vì thế chỉ có thể làm cho
lớp người hạng vừa ưa thích mà không lung lạc được hạng người thượng
trí.”
IV.54
Gần đây, nhiều người truyền nhau tập
“Phả thanh điệu” nói rằng do Vương Nguyễn Đình truyền lại, những người
làm thơ thất ngôn cổ phong đều thờ làm bản sách bí ẩn, tôi xem qua, bất
giác buồn cười. Thơ là nguyên âm của trời đất, có nhất định mà lại không
nhất định, khi nào vừa đúng chỗ hay thì tự nó thành ra âm tiết, chỗ vi
diệu trong đó, miệng không thể nói ra, thử xem như các loại thơ “Quốc
phong”, “Nhã”, “Tụng”, “Ly tao”, “Nhạc phủ”, đều có thanh điệu mà không
thể điền theo phả nào, trong loại thơ thất ngôn cổ phong của các ông Đỗ
Phủ, Vương Duy, bằng trắc điều hòa cũng có bài như thơ thất ngôn Đường
luật, thơ Hàn Dũ có bài bảy vần đều bằng, hoặc bảy vần đều trắc, Nguyễn
Đình làm thế nào mà buộc họ vào cái lệ “bốn trắc, ba bằng” được! Nếu
nhất định phải theo phả khúc mà sắp xếp thì cái phong cách “tứ thủy lục
nghĩa” mất hết còn gì! Chính vì thế mà loại thơ thất ngôn cổ phong của
Nguyễn Đình cũng như Bá Cơ [1] xưa không dám chuyển dời một bước.
[1] Bá Cơ người đời
Xuân thu, vợ vua nước Tống, thờ chồng trực tiết, một hôm bị hỏa hoạn, vì
vắng mặt bảo mẫu, không dám dời đi, bèn bị chết cháy
IV.56
Thơ tuy là nghề mọn, nhưng cũng phải học
tập từ khi thơ ấu, bắt đầu học, phải trên từ Hán Ngụy, Lục triều, dưới
đến Tam Đường, Lưỡng Tống, tự nhiên nguồn dòng nắm được, mạch lạc phân
minh, còn sĩ phu đời nay thì đã bỏ hết tinh thần vào loại văn bát cổ
rồi, sau khi làm quan mới mến tiếng thơ mà cố gắng học, lại mến tiếng
các nhà thơ lớn mà bó hẹp phạm vi học lại, do đó, thơ Tống chỉ học Tô,
Hoàng, thơ Đường chỉ học Hàn, Đỗ, ngoài ra đều không học đến, phải biết
rằng, bốn nhà thơ ấy có phải người học cạn bắt chước được đâu! Vì thế,
chỉ học được bề ngoài, khoe mình là cao cả, trọn đời noi theo, mà không
biết đạo làm thơ là như thế nào. “Kinh thư” có câu: “Đức không có thầy
thường, nhằm vào điều thiện để làm thầy.” Tử Cống có câu: “Phu Tử không
gì không học, nhưng có thầy nhất định đâu”, đó là mấu chốt trong việc
làm thơ vậy. Đào Hoàng Thôn nói rằng: “Lời nói của tiên sinh cố nhiên là
phải, nhưng cũng phải nhìn đến tính chất trời cho như thế nào, người có
tính chất gần gũi với thơ, dù trung niên rồi mới học cũng có thể trở
thành nhà thơ nổi tiếng, người mà tính chất xa với thơ, thì dầu có học
tập từ lúc thơ ấu cũng vô ích, mài sắt có thể nên kim, chứ mài gạch thì
không bao giờ có thể nên kim được.”
Thứ Sáu, 19 tháng 4, 2013
Thứ Ba, 9 tháng 4, 2013
Thứ Hai, 8 tháng 4, 2013
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)